HUYỄN TƯỞNG VÀ ẢO MỘNG

Huyễn Tưởng và Huyễn Mộng

 

 

Huyễn tưởng - Illusion, Huyễn mộng - Glamour và Maya - Ảo ảnh đều cùng chỉ việc hư ảo, huyễn hoặc không đúng sự thật, với mỗi loại có tính chất riêng của nó, và cái trí phân tích phải phân biệt thành những giai đoạn rõ rệt khác nhau.
● Huyễn tưởng có tính trí tuệ và có đặc điểm là thấy nơi ai thiên về lý trí hơn là tình cảm; người như vậy đã qua được huyễn mộng rồi, nay vấn đề của họ là sự hiểu lầm ý tưởng và hình tư tưởng, cùng diễn giải sai.
● Huyễn mộng  có tính tình cảm và vào lúc này mạnh mẽ hơn huyễn tưởng, do việc đại đa số người sống bằng tình cảm hơn là lý trí.
● Ảo ảnh chỉ về các lực nơi cõi trần. Chính yếu thí nó là lực của con người khi bị huyễn tưởng hay huyễn mộng, hay cả hai chi phối.

Phân Loại
Đi vào chi tiết hơn ta có như sau:
1. Người có lý trí mạnh mẽ thường bị vướng vào huyễn tưởng. Đây là thực tại với người chí nguyện bị chi phối bởi:
● Một hình tư tưởng có sức mạnh tới độ nó làm hai việc:
– Làm chủ sinh hoạt trong đời sống của họ.
– Hướng họ tới khối hình tư tưởng có bản chất tương tự, do người khác tạo nên mà cũng bị một huyễn tưởng tương tự chế ngự.
Chuyện tệ nhất của loại này gây ra điên loạn tâm thần hay idée fixe, còn ở hình thức ít nguy hiểm nhất và kết quả bình thường là nó sinh ra kẻ cuồng tín.
Người cuồng tín thường là người bị hoang mang mà không biết, có ý tưởng mạnh mẽ về chuyện này hay kia nhưng thấy khó mà hòa hợp với thế giới chung quanh, cũng như khó mà chịu  có nhân nhượng cần thiết cho dù có sự hướng dẫn thiêng liêng, để giúp đỡ nhân loại sâu xa; hay có giờ, có chỗ cho các thực tại trong tầm với tự nhiên của mình.
● Khi một người phát triển cao, huyễn tưởng về trí não được tạo quanh một trực giác rõ ràng; ý này được cụ thể hóa làm hình dạng của nó thực đến nỗi họ tin là thấy quá rõ điều chi phải làm, hay phải cho thế giới, nên họ dành thì giờ của mình cố công theo cách cuồng tín để làm người khác cũng thấy y vậy. Do đó đời họ đi theo ảo tưởng, và kiếp này của họ tương đối không có lợi ích gì.
Trong vài trường hợp hiếm, trực giác và sinh hoạt trí năng kết hợp thành thiên tài trong một lãnh vực; khi ấy không có huyễn tưởng mà có sự suy nghĩ rõ ràng cộng thêm với khả năng được luyện trong lãnh vực hay hoạt động ấy.
● Người có trí não yếu hơn và ở mức trung bình hơn, bị bầu huyễn tưởng nói chung và huyễn tưởng của khối đông chi phối. Cõi trí bẻ cong nhận thức theo một cách khác với cõi tình cảm hay cõi ether. Khả năng phân biện đang phát triển sinh ra đường nét rạch ròi hơn, và thay vì lớp sương dầy đặc và hơi mờ mịt của cõi trung giới, hay các lốc xoáy, sóng năng lực tràn ngập nơi cõi ether, ta có ở cõi trí các khối hình tư tưởng đường nét gẫy gọn cho thấy có tính chất, nốt và độ mạnh đặc biệt, chung quanh đó là các nhóm gồm những hình tư tưởng kém hơn, do ai đáp ứng với hình ban đầu, với tính chất, nốt và độ mạnh của nó sinh ra.
Các điều tương tự nhau có đó tạo nên đường kinh, hay đường nối cho từ lực thu hút của các hình tư tưởng mạnh hơn. Ta thấy những thuyết thần học cổ xưa nay khoác lớp áo mới, tư tưởng nửa vời được trưng ra, suy nghĩ ngông cuồng của các nhóm trên thế giới, cùng nhiều nguồn tương tự phát sinh đã theo với thời gian tạo nên cõi huyễn tưởng, và các điều kiện tâm trí đã cầm tù nhân loại vào những ý niệm và tư tưởng sai lầm.
Rất nhiều cái trong số này là những tư tưởng sinh ra huyễn tưởng, với ảnh hưởng trong thế giới ngày nay đã gây ra chia rẽ nói chung trong nhân loại thành các trường phái tư tưởng khác nhau (triết học, khoa học, tôn giáo, xã hội học, v.v.), thành nhiều phái và nhóm mà tất cả nhuộm mầu theo một ý tưởng tương tự, thành các nhóm người có tính lý tưởng, chống phá nhau khi bênh vực thuyết lý riêng của mình, và thành hằng ngàn thành viên trong hoạt động trí tuệ nhóm.
Những người này hiện thời tạo nên thế giới chữ nghĩa, và qua đó các hoạt động trên toàn cầu bị nhuộm mầu. Các lãnh tụ thế giới được chúng gợi hứng, và ở thời điểm này chúng có trách nhiệm về khối lớn các thí nghiệm trong cách cai trị dân chúng, giáo dục, tôn giáo, làm sinh ra xáo trộn quá sức trong xã hội, với hệ quả là phần lớn huyễn tưởng của trái đất.
Thế thì điều cần vào lúc này là người biết suy nghĩ tự luyện cho mình về trí năng và có chủ đích, tách biệt hẳn với nguy hiểm của tính cảm thụ tiêu cực, và cùng lúc đáp ứng với hứng khởi trực giác cao hơn. Chuyện cần là có người có thể đứng trung gian diễn dịch ý tưởng, mà không phải là đồng cốt trung gian.

2 . Loại người tình cảm đáp ứng dễ dàng với huyễn mộng của thế giới, và với huyễn mộng của chính họ hoặc được thừa hưởng hoặc tự họ sinh ra. Khối đông trong số này sống thuần tình cảm với thỉnh thoảng có lóe hiểu biết trí tuệ thật sự, chuyện rất ít khi thấy, và thường là hoàn toàn không có.
Huyễn mộng được ví như hơi hay màn sương mù mà người chí nguyện đi vẩn vơ trong đó, và nó bóp méo tất cả những gì họ thấy và tiếp xúc, ngăn không cho họ thấy sự sống thực sự hay rõ ràng, hay tình trạng bao quanh đúng như nó là. Khi tiến xa hơn một chút, họ ý thức huyễn mộng và đôi lúc có lóe sáng cho thấy chân lý nằm hướng nào đối với họ. Nhưng rồi huyễn mộng lại rơi xuống, và họ bất lực không thoát ra được hay làm được chuyện gì có tính xây dựng.
Vấn đề của họ hóa rắc rối thêm vì sự rầu rĩ và chán ghét chính mình. Họ đi hoài trong huyễn mộng và không thấy gì thực sự hiện hữu. Họ bị vẻ ngoài gạt gẫm và quên điều mà vẻ ngoài che đậy. Phản ứng sinh ra ở cõi trung giới là họ luôn có màn huyễn mộng bao quanh chính mình, và nhìn xuyên qua lớp sương mù, lớp hơi này vào một thế giới  bị bóp méo. Các phản ứng này và hào quang mà họ tạo nên, hòa với và trộn vào huyễn mộng cùng sương mù của thế giới, tạo thành một phần của sự hư ảo không lành mạnh mà qua bao nhiêu triệu năm, khối đông con người có trách nhiệm.
Nói thêm thì vào thời Lemuria là giống dân thứ ba, huyễn mộng và huyễn tưởng tương đối không có theo quan điểm của người. Lúc ấy không có phản ứng trí tuệ và chỉ có ít đáp ứng tình cảm với khung cảnh. Nhân loại phần lớn là con vật sống theo bản năng. Huyễn mộng bắt đầu có vào thời Atlantis là giống dân thứ tư, và từ khi ấy nó dần dần cô đọng cho tới ngày nay, khi Thiên Đoàn nhìn vào nhân loại thì thấy như con người đang bước đi trong những dòng sâu với mức đậm đặc thay đổi luôn; chúng che dấu, bẻ cong và xoáy quanh con người, ngăn không cho họ thấy Sự Sáng như nó là.
Chuyện càng rõ hơn khi ta nhớ rằng những loài khác trong thiên nhiên tương đối không bị có huyễn tưởng và huyễn mộng. Nơi giống dân Aryan hiện tại là giống dân thứ năm, thế giới huyễn tưởng đang dần hóa thành quan trọng và được tâm thức con người chậm chạp nhận biết, và đây là một thành đạt thực sự, vì điều chi được nhận biết sau đó có thể được đối phó một cách thông minh nếu có ý muốn làm vậy. Ngày nay huyễn tưởng thành quá mạnh, nên không có mấy ai có trí não phát triển mà không bị những hình tư tưởng huyễn hoặc rộng lớn này chi phối, chúng có gốc rễ và lấy sức sống từ sự sống của phàm ngã cùng dục vọng của khối đông người.
Điều thú vị có liên hệ với giống dân Aryan cũng nên nhớ, là các hình tư tưởng này còn lấy sinh lực từ cõi các ý tưởng, nhưng là ý được cảm biết sai lầm, được nắm lấy để phục dịch cho mục đích ích kỷ của người. Các hình ấy được làm linh hoạt bằng khả năng sáng tạo ngày càng lớn mạnh của nhân loại, và phục tùng ý muốn của con người, qua việc dùng ngôn ngữ với sức mạnh của nó để hạn chế và bẻ cong. Huyễn tưởng cũng được kết tụ lại mạnh hơn so với thông thường, khi nhiều người đầy lý tưởng và nỗ lực hết sức để áp đặt các hình tư tưởng đó lên thể trí của khối đông. Việc ấy tạo nên một trong các vấn đề lớn mà Thiên Đoàn ngày nay phải quan tâm; nó cũng là một trong các yếu tố đầu tiên mà vị Chân Sư phải cân nhắc, liên quan đến bất cứ người chí nguyện nào.
Huyễn mộng như ta dã thấy có nguồn gốc lâu đời hơn và xuất hiện sớm hơn là huyễn tưởng. Nó không có mấy tính chất trí tuệ, và là yếu tố lớn kiểm soát đa số dân chúng. Mục tiêu của mọi huấn luyện trên đường làm đệ tử cho tới lần chứng đạo thứ ba, là gợi nên việc suy nghĩ rõ ràng, điều sẽ làm cho người chí nguyện thoát khỏi huyễn tưởng và cho họ sự ổn định tình cảm, sự thăng bằng không cho bất cứ gì thuộc thế giới huyễn mộng len vào. Tự do này có được khi trong lòng người chí nguyện không có huyễn mộng cá nhân, và không có đáp ứng chủ ý sinh ra với những yếu tố rõ ràng tạo nên huyễn mộng khi xưa.

3. Maya -  Ảo ảnh là kết quả của cả hai huyễn tưởng và huyễn mộng . Khi có ảo ảnh thì nó muốn nói ta có một phàm ngã với ba mặt là thể chất, tình cảm và trí tuệ đã phát triển, hòa hợp với nhau, do đó người như vậy có khả năng đáp ứng với huyễn tưởng cõi trí và huyễn mộng cõi tình cảm. Khi có tình trạng ấy, vấn đề phải đối đầu là một trong những vấn đề lớn nhất trên thế giới. Khó khăn chính yếu cho mỗi ai là sự kiện việc tranh đấu có liên quan tới mỗi phần của bản tính họ. Cả ba phần của con người can dự và sự tranh đấu diễn ra ở mặt trí tuệ, tình cảm lẫn cõi trần. Mặt khác, trí thông minh sẵn trong vật chất có vẻ có minh triết thâm sâu, thường khi cản không cho minh triết thực sự của một cái trí được soi sáng đi vào.
Trọn câu chuyện là việc dùng đúng hay sai lực và năng lực trong ba cõi sinh hoạt của con người,  lực trong cõi hiện tượng, năng lực của linh hồn ở những cõi cao hơn, và năng lực của sự sống. Một trong các vấn đề mà người chí nguyện phải đối đầu là nhận biết đúng thực huyễn mộng khi nó trỗi lên, và nhận ra huyễn mộng trên đường của mình, cùng huyễn tưởng đang tạo nên bức tường giữa họ với sự sáng. Việc một ai ý thức huyễn mộng và huyễn tưởng hiện hữu là điều đáng nói. Đa số người không cảm biết sự hiện diện của chúng. Nhiều người tốt lành ngày nay không nhận ra việc ấy; họ thần thánh hóa huyễn mộng và xem huyễn tưởng của mình như là sở hữu quí giá và dầy công mới chiếm được.
Hành động nhận biết dầu vậy tới phiên nó lại có vấn đề, người chí nguyện trung bình không thể tự mình thoát khỏi những quan năng tạo huyễn mộng trong quá khứ, cũng như họ thấy khó mà duy trì tầm nhìn đúng và ý đúng đắn về giá trị khi bàn về các chân lý ở cõi trí. Người ta có thể khó khăn mới tìm ra chân lý và nắm được nguyên tắc của thực tại, rồi quanh đó người chí nguyện có thể tạo nên dễ dàng các huyễn tưởng về trí não. Huyễn mộng có tính tình cảm có thể sinh ra và tụ lại quanh lý tưởng, vì nó chưa được làm sáng tỏ, và dễ thu hút vào mình điều chi nó tin - với đầy tình cảm và rất nhậy cảm - mình là và có.
Ta sẽ diễn tả điều này theo hai khía cạnh, cả hai đều nằm trên con đường của người chí nguyện, hoặc gặp trên đường dự bị. Ta gọi chúng là ‘huyễn tưởng về quyền lực’ và ‘huyễn mộng về thẩm quyền’. Chữ dùng cho bạn thấy một cái gặp nơi cõi trí và cái kia nơi cõi tình cảm.

Hai Sai Lạc
1. Huyễn mộng về thẩm quyền là huyễn mộng về một khối người trong đa số trường hợp. Nó có gốc rễ trong tâm lý quần chúng, và là một chỉ dấu nói rằng nhân loại còn trong giai đoạn trẻ thơ, trong đó con người được giữ cho an toàn bằng cách áp đặt luật, một số qui định, mệnh lệnh có thẩm quyền, phát sinh từ sự kiểm soát của quốc gia, từ sự cai trị của một dòng họ, hay sự độc tài của một người. Nó giảm nhân loại vào một số hình thức và tiêu chuẩn hóa sinh hoạt của người, đặt qui luật cho đời họ và công việc của họ. Nó được áp đặt và ra lệnh, qua việc gợi nên lòng sợ hãi đang lan tràn trong nhân loại hiện nay; và nỗi sợ hãi ấy là một trong những nguồn rất thành công trong việc tạo nên huyễn mộng của ta. Ta có thể và có lý do xem nó như là hạt giống cho tất cả huyễn mộng trên trái đất. Sự sợ hãi đã là động lực cho những điều kiện làm sinh ra huyễn mộng nơi cõi trung giới, tuy không phải là vậy cho huyễn tưởng ở cõi trí.
Khi huyễn mộng về thẩm quyền đi vào tâm thức tinh thần của người, ta có sự việc như là giai đoạn pháp đình tôn giáo - Inquisition ở tây phương thời xưa, hay như là thẩm quyền của giáo hội với sự nhấn mạnh vào mặt tổ chức, cai trị và trừng phạt, hay là vai trò không ai được chất vấn của một vị thầy. Ở mức cao nhất của nó là sự nhìn nhận quyền làm chủ của Chân ngã đối với phàm ngã. Nằm giữa hai thái cực này:
– Một cái biểu lộ sự non nớt của con người, giống dân.
– Cái kia là sự tự do có được khi nhân loại tới mức trưởng thành và sự tự do của linh hồn,
là đủ mọi loại phản ứng ở giữa. Để mô tả điểm ấy và để nhấn mạnh việc huyễn mộng ảnh hưởng người chí nguyện, họ gặp phải chuyện gì trên đường, ta hãy xem điều gì xẩy ra khi họ đã thoát khỏi phần nào sự kềm chế mà giáo lý thông thường cùng luật của một vị thầy áp đặt lên họ. Nay họ được tự do khỏi những kiểm soát này, tuy vậy họ biết điểm yếu chính của mình và sự quyến rũ của phàm ngã, họ luôn cảnh giác với mình, với những luật cổ xưa về sự kiểm soát, và học cách tự mình đứng vững chãi, tự có quyết định, tự phân biện để tìm chân lý.
Họ học cách chọn đường lối của mình, nhưng giống như tất cả những ai chưa tiến xa hơn, tới một lúc nào đó họ sẽ mê mẩn với tự do ấy, và lập tức khi ấy đi vào huyễn mộng của lý tưởng của họ về tự do - cái lý tưởng mà họ đã tạo ra. Người bạn thành tù nhân cho tự do của mình. Anh gạt bỏ mọi luật chỉ trừ điều anh gọi là ‘luật của linh hồn tôi’, quên đi rằng anh vẫn chỉ tiếp xúc được lúc có lúc không với linh hồn. Anh đòi có quyền đứng một mình tự do, hân hoan với tự do mới có của anh.
Nhưng anh quên rằng khi từ bỏ thẩm quyền của một chỉ dạy nào và của một vị thầy, anh phải học chấp nhận thẩm quyền của linh hồn và của nhóm linh hồn mà anh kết nối do karma, loại cung của mình, chọn lựa của mình. Nay đã từ bỏ sự hướng dẫn của một người khác trên đường Đạo, và đã mở mắt phần nào, anh tìm cách đi trên đường tới đích nhưng dù thế lại quên rằng anh đi trên đường Đạo cùng với nhiều người khác, và có các ‘Luật trên Đường’ phải theo, phải tuân cùng những người khác.
Anh đã thay luật cá nhân cho luật của nhóm, mà không biết luật của nhóm là sao. Anh cố sức độc hành theo khả năng của mình, hứng chí là đã đạt tự do không còn bị thẩm quyền nào chi phối. Anh tự hứa với lòng là sẽ không chấp nhận thẩm quyền hay hướng dẫn nào.
Bậc Thầy xem xét người chí nguyện như thế và nhìn anh từ nơi cao của ngài, dần dần thấy anh bị sương mù che mờ, chìm trong huyễn mộng đang từ từ dâng lên quanh anh, khi người bạn trở thành ‘tù nhân của sương mù về sự tự do’, và hân hoan trong điều mà anh cho là sự độc lập của mình. Khi thấy rõ hơn, và khi trí não phát triển hơn anh sẽ biết là Luật của Nhóm phải, và sẽ, áp đặt nó lên anh, rằng luật của phàm ngã nay phải được thay bằng luật của Chân ngã. Đây là qui tắc của nhóm và làm việc theo luật của nhóm.
Anh đã vượt ra khỏi khối đông người tìm Đạo và đã bước trên đường, như thế anh đi trước họ nhưng không đi một mình, cho dù anh nghĩ mình làm vậy. Anh sẽ khám phá là có nhiều người khác cũng đi trên đường theo cùng một hướng như anh, và số ấy sẽ đều đặn tăng lên khi anh tiến thêm. Luật của việc hành xử khi đi trên đường, của việc nhận ra người trong nhóm cùng việc làm và chuyện phụng sự, sẽ áp đặt chúng lên người bạn, cho tới khi anh nhận ra mình là một thành viên của nhóm mới những người phụng sự thế giới, làm việc trong những điều kiện là luật quản trị hoạt động của họ.
Khi người bạn học cách đi cùng với họ trên đường Đạo, động lực của những người này và kỹ thuật của họ trong việc phụng sự họ chọn sẽ thấm nhập tâm thức của anh, và người bạn tự động lẫn tự nhiên bắt đầu tuân theo nhịp cao hơn, bằng lòng chấp thuận những luật quản trị sự sống của nhóm và tâm thức nhóm. Cuối cùng, anh sẽ thấy mình tiến vào chốn tĩnh lặng, nơi các Chân Sư Minh Triết ngụ, và sẽ làm việc cùng với các Ngài theo nhịp của nhóm, và như thế tuân theo các luật ở cõi tinh thần, là những luật cõi cao.
Lần này rồi lần nữa, dọc theo đường, anh sẽ nổi loạn không để bị kiểm soát, và sẽ rơi trở lại vào huyễn mộng của điều mà anh cho là tự do. Quả tự do thoát khỏi sự chế ngự của phàm ngã, tự do thoát khỏi sự chế ngự của nhiều phàm ngã. Nhưng không hề có tự do nào khỏi Luật Phụng Sự, và khỏi sự tương tác không ngừng giữa người với người, và giữa linh hồn với linh hồn. Đứng tự do thực sự là đứng trong ánh sáng trong trẻo không gì ngăn chặn của linh hồn, điều trên căn bản và tính chất là tâm thức nhóm.
(Nói thêm ở đây thì khi so sánh trên đường tiến hóa xoắn ốc, ta thấy điều thú vị là mức thành đạt ở nấc cao là phản ảnh của nấc dưới tuy có tính chất cao hơn. Nơi loài vật ta có hồn khóm - group soul, con vật chưa có ngã thức; nơi loài người mỗi đơn vị đã có ngã thức, từ hồn khóm tách ra thành cá nhân riêng biệt, mà khi tới nấc cao hơn lại họp trở về chung với nhau, lần này mỗi đơn vị có ngã thức phát triển mạnh mẽ, thành tâm thức nhóm.)
Thế nên khi một ai trong chúng ta bị rối trí vì có hoang mang bất định, không có ngừng nghỉ, và muốn cùng đòi hỏi bước đi tự do, không muốn có thẩm quyền nào áp đặt lên ta, lời khuyên là ta đừng để mình vướng vào huyễn mộng là mong ước thoát khỏi tác động của nhóm mà mình thuộc về, và xem kỹ là ta có đang đi tìm - như là một linh hồn nhậy cảm - đường thoát. Hãy tự hỏi lòng những câu sau:
– Sự thoải mái và yên tâm của ta có quan trọng cho ta và cho người khác, đến mức đáng cho ta hy sinh tính toàn vẹn của nhóm để có được điều ấy ?
– Sự thỏa mãn trong lòng có là cớ đủ để trì hoãn mục tiêu đã định của nhóm ? Vì chắc chắn nó sẽ làm trì hoãn.
Bất cứ quyết định nào ta làm tới phiên sẽ tạo thành quyết định có thẩm quyền cho ra phản ứng tiếp theo nhóm…
Điều đáng nói khác và cũng thú vị là chân lý tinh thần hay chuyện cõi cao, khi đi xuống áp dụng vào cõi thấp thường bị biến dạng, hình thức có thể trông giống nhau nhưng tính chất bị biến đổi khác đi, tới mức nó có thể thành ngược hẳn với ý thật ở cõi cao. Một trong những ý bị bóp méo tai hại là ý vâng phục - obedience. Các dòng tu, giáo phái cả chính lẫn tà đòi hỏi người nhập môn vâng phục theo luật của dòng, hay tệ hơn là vâng phục ai đứng đầu giáo phái, tu viện trưởng. Ý đúng thực là phàm ngã tuân theo Chân ngã, Thượng đế nội tâm, mà không phải một Thượng đế bên ngoài, và càng không phải một cá nhân chưa hoàn thiện nào khác.
Sự phân biệt giữa vị Thầy tinh thần chân chính với người chưa phải vậy, là vị trước hướng dẫn ta đến Thượng đế nội tâm của mỗi người là Chân ngã, mà không đòi hỏi ta thần phục, vâng theo cái ngã của ngài, và lại càng không hề yêu cầu người ta ‘cúng’ hết tài sản, của cải cho ngài như một số trường hợp được nói tới trong vài giáo phái.
Thẩm quyền nói tới ở đây là gì ? Người chí nguyện đi trên đường Đạo đáp ứng với điều chi ?
– Với sự sáng ‘ở xa kia - light beyond’. Sự sáng này khác nhau trong sức thu hút của nó nơi mỗi người, nhưng chỉ là Một Sự Sáng. Nhận thức về sự sáng làm tỏ lộ các luật mới, trách nhiệm mới, bổn phận mới, trách vụ mới, và liên hệ mới với người khác. Những điều này tạo nên một sự kiểm soát có thẩm quyền. Không gì có thể thoát khỏi thẩm quyền này, nhưng ta có thể không tuân phục theo nó trong không gian và thời gian, và trong một lúc tạm thời.
– Với thẩm quyền của Luật trên Đường, luật áp đặt lên người chí nguyện khi họ đi từ đường Dự Bị sang con đường của người đệ tử. Dù vậy, tất cả chỉ là Một Con Đường. Trên đường dốc đứng, cheo leo này người ta học cách bước đi với kỷ luật, sự thận trọng, không ao ước chi, điều mà người ta kinh nghiệm khi hòa hợp với các bạn đồng hành.
Sách vở trưng ra sáu luật đơn giản nhất được ghi ở bài Luật Trên Đường 2 trong số này, và có nhắc nhở là chúng được áp đặt lên người chí nguyện do một thẩm quyền, không phải từ các vị thầy dù là Chân Sư, mà là từ điều kiện gặp trên con đường. Chúng có tính chất của Chân Ngã mỗi người, và là kết quả của kinh nghiệm hằng triệu người có trên đường Đạo.

2. Huyễn tưởng về quyền lực có lẽ là một trong các thử thách đầu tiên và nghiêm trọng nhất cho người chí nguyện. Nó cũng còn là một trong những thí dụ hay nhất về lỗi lầm to tát, nên được nêu ra đây cho ta biết để tự cảnh giác. Có ít người chí nguyện thoát được ảnh hưởng của huyễn tưởng này, vì chuyện lạ lùng là nó dựa trên sự thành công và động lực đúng đắn, cho ra bản chất kỳ lạ của vấn đề. Chuyện có thể được trình bầy như sau:
Người chí nguyện nhờ nỗ lực đúng cách đã thành công, tiếp xúc được với linh hồn hay Chân ngã của mình. Bằng việc tham thiền, có chủ ý lành và kỹ thuật đúng cách, cộng với lòng ao ước phụng sự và thương yêu, anh đạt được sự liên hợp giữa ba thể với linh hồn. Anh thành ra cảm biết được kết quả việc làm thành công của mình. Trí anh được soi sáng, một cảm giác về quyền lực tuôn chẩy trong các thể của anh; tạm thời trong một lúc anh được cho biết về Thiên Cơ, tâm thức anh tràn ngập ý về nhu cầu của thế giới và khả năng đáp ứng của linh hồn với nhu cầu ấy. Lòng tận tụy, dâng hiến và mục tiêu đúng đắn thêm phẩm chất cho luồng năng lực tinh thần. Anh biết. Anh thương yêu. Anh tìm cách phụng sự, và làm cả ba chuyện này thành công ít nhiều.
Kết quả của những điều này là anh càng lúc càng chìm đắm vào ý về quyền lực, và với phần việc anh làm trong chuyện trợ giúp nhân loại, hơn là với nhận thức đúng tầm mức và với các giá trị tinh thần. Anh đánh giá quá mức chính anh và kinh nghiệm của mình. Thay vì có nỗ lực gấp đôi, và nhờ vậy có tiếp xúc gần hơn với cõi tinh thần và thương yêu nhân loại sâu đậm hơn, anh bắt đầu làm người ta chú ý đến anh, đến sứ mạng mà anh sắp làm, và đến sự tin tưởng mà có vẻ như Chân Sư và luôn cả Thiên đoàn đặt vào anh. Anh nói về mình, anh múa may làm thu hút kẻ khác, đòi hỏi được nhận biết.
Khi làm vậy, sự kếp hợp với phần cao trong anh dần dần bị hư hại, sự tiếp xúc giảm lần và anh thành một trong nhiều kẻ bị lạc bước trong huyễn tưởng về quyền lực mà họ cảm nhận. Hình thức huyễn tưởng này trở thành ngày càng tăng nơi người chí nguyện, nhất là ai đạt được hai lần chứng đạo đầu (initiation, còn gọi là điểm đạo). Hiện giờ trên thế giới có nhiều người được chứng đạo trong một kiếp trước. Tới một lúc nào đó trong đời này có việc tái lại, gợi lại sự phát triển có trước đó, anh tới một điểm nhận thức ra điều mình đã đạt khi xưa.
Ý nghĩa của sự thành đạt ấy tràn ngập hồn anh, cùng với ý về trách nhiệm và sự hiểu biết của mình. Anh lại coi trọng mình quá mức, xem sứ mạng của mình và chính mình như là độc nhất so với ai khác, và có ý muốn được biết tới, nhận ra; chuyện làm hư công việc mà lẽ ra có thể mang lại thành quả. Vì bất cứ nhấn mạnh nào vào phàm ngã có thể bẻ cong thật dễ dàng ánh sáng của linh hồn, khi nó tìm cách tuôn xuống phàm ngã. Bất cứ nỗ lực nào làm chú ý tới sứ mạng sẽ khiến phần việc ấy bị sút giảm, và gây trở ngại cho người làm việc ấy. Nó dẫn tới sự trì hoãn việc hoàn thành công chuyện, cho tới khi nào người bạn chỉ còn là đường kinh qua đó tình thương và sự sáng có thể chiếu rạng. Sự tuôn tràn và chiếu rạng này phải là việc xẩy ra tự nhiên, và không nhắc gì đến cái tôi.
Hai thí dụ trên về huyễn tưởng và huyễn mộng cho ta thấy chẳng những sự tế nhị của vấn đề, mà luôn cả nhu cầu cấp bách phải nhận ra chúng. Hiện nay có nhiều người biểu lộ hai điều này của bản tính thấp.

Theo:
Glamour: A World Problem
A.A.Bailey